bài hát mùa thu nửa lạnh
nguyên bản 9 tháng trước
Thực tiễn lịch sử 28 năm viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam (1950-1978) cho thấy viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam là nhân tố tất yếu, quan trọng để sự nghiệp cách mạng và xây dựng thắng lợi của Việt Nam. Hơn nữa, trên tinh thần thực hiện nghĩa vụ quốc tế không kêu ca, không tuyên truyền, không giấu diếm, chúng ta làm mọi cách có thể để hỗ trợ Việt Nam các loại vật tư cần thiết, kể cả mua của nước ngoài. Chủ tịch Việt Nam Hồ Chí Minh đã từng sử dụng các từ "hào phóng, vị tha, to lớn và hiệu quả" để mô tả sự giúp đỡ của Trung Quốc cho Việt Nam. Ông nói: “Chúng tôi rất xúc động và vô cùng biết ơn tinh thần quốc tế cao cả của nhân dân Trung Quốc và tình hữu nghị của họ với nhân dân Việt Nam”
1.Hỗ trợ chính trị và ngoại giao của Trung Quốc
Tháng 12 năm 1946, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam bắt đầu, cho đến khi đi vào bế tắc, không một nước nào trên thế giới công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chỉ hơn ba tháng sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, ngày 18 tháng 1 năm 1950, chính phủ Trung Quốc chính thức tuyên bố công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tiếp sau đó, ngày 30-1-1950, Liên Xô cũng tuyên bố công nhận, rồi các nước dân chủ nhân dân ở Đông Âu và CHDCND Triều Tiên, Mông Cổ ở châu Á cũng lần lượt tuyên bố công nhận Việt Nam. Các nước châu Á khác như Ấn Độ, Miến Điện, Pa-ki-xtan tuy chưa chính thức công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng đã bày tỏ rõ thiện cảm và tình hữu nghị với Việt Nam. Trung Quốc đi đầu trong việc công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tạo cho Việt Nam một vị thế vững chắc trên trường quốc tế. Đây là một sự kiện vô cùng quan trọng trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam. Vì lý do này, Việt Nam đã từng chỉ định ngày 18 tháng 1 là "Ngày Chiến thắng NSau khi đế quốc Mỹ ném bom miền Bắc Việt Nam vào tháng 8 năm 1964, Trung Quốc đã bắt đầu một đợt tăng cường mới trong việc giúp đỡ Việt Nam và chống lại cuộc chiến tranh của Mỹ. Đích thân Chủ tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai tham gia cuộc biểu tình đông đảo của hơn 1 triệu người ở Bắc Kinh. Trung Quốc trịnh trọng tuyên bố: “Cuộc xâm lược của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một cuộc xâm lược chống lại Trung Quốc.” “Nhân dân Trung Quốc sẽ dùng mọi biện pháp cần thiết, kể cả với sự hy sinh lớn nhất của quốc gia, và làm hết sức mình để ủng hộ nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh của họ phải chống Mỹ, cứu nước đến cùng”.ngoại giao", được tổ chức kỷ niệm trọng thể hàng năm.
Sau khi đế quốc Mỹ ném bom miền Bắc Việt Nam vào tháng 8 năm 1964, Trung Quốc đã bắt đầu một đợt tăng cường mới trong việc giúp đỡ Việt Nam và chống lại cuộc chiến tranh của Mỹ. Đích thân Chủ tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai tham gia cuộc biểu tình đông đảo của hơn 1 triệu người ở Bắc Kinh. Trung Quốc trịnh trọng tuyên bố: “Cuộc xâm lược của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một cuộc xâm lược chống lại Trung Quốc.” “Nhân dân Trung Quốc sẽ dùng mọi biện pháp cần thiết, kể cả với sự hy sinh lớn nhất của quốc gia, và làm hết sức mình để ủng hộ nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh của họ phải chống Mỹ, cứu nước đến cùng”.
2.Tổng viện trợ cho Việt Nam vượt 20 tỷ đô la Mỹ
Nước ta từng tuyên bố: “700 triệu người dân Trung Quốc là chỗ dựa vững chắc của nhân dân Việt Nam, lãnh thổ Trung Quốc rộng lớn là hậu phương tin cậy của nhân dân Việt Nam”. Từ năm 1950 đến năm 1978, tổng giá trị viện trợ của Trung Quốc cho nước tôi vượt quá 20 tỷ USD, chiếm 41% tổng viện trợ nước ngoài của Trung Quốc. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp 1950-1954, Trung Quốc là nước duy nhất viện trợ quân sự cho Việt Nam. Toàn bộ vũ khí, khí tài, trang bị của quân đội Việt Nam đều do Trung Quốc trực tiếp cung cấp theo nhu cầu ngân sách và chiến dịch. Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, hầu hết vũ khí, khí tài và trang thiết bị quân sự của Việt Nam đều do Trung Quốc cung cấp, bao gồm quân phục, thuốc men, thiết bị y tế và nhiều đại bác, xe tăng, xe bọc thép, súng phòng không, tên lửa, máy bay, tàu thủy và nhiều loại khác. phụ tùng, dầu mỏ, đủ trang bị cho hơn 2 triệu quân Việt Nam, cung cấp đầy đủ đạn dược, khí tài các loại theo nhu cầu tác chiến liên tục trên các chiến trường.
Về hỗ trợ Việt Nam khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc, sau hòa bình lập lại năm 1954, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung Quốc đã giúp Việt Nam khôi phục đoạn đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng bị phá hủy hoàn toàn bởi chiến tranh. chiến tranh, với chiều dài khoảng 200 km. Khi đó, Trung Quốc chưa sản xuất được loại khổ hẹp này, Chủ tịch Mao Trạch Đông lập tức quyết định tháo dỡ tuyến đường sắt Tongpu (cũng là khổ hẹp) ở tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc, vận chuyển về Việt Nam để đặt và trang bị toàn bộ đầu máy, toa xe. . Với sự hỗ trợ của các kỹ thuật viên và công nhân Trung Quốc, tuyến đường sắt đã được sửa chữa trong 4 tháng.
Từ năm 1954 đến tháng 3 năm 1978 đã hoàn thành 339 công trình gồm nhà máy gạo, nhà máy đường, nhà máy dệt, nhà máy đan, nhà máy giấy, nhà máy điện, nhà máy hoá chất, nhà máy cao su, nhà máy xà phòng, nhà máy thuốc lá, nhà máy diêm, nhà máy bóng đèn Nhà máy bình giữ nhiệt. , nhà máy tráng men, nhà máy văn phòng phẩm Honghe, nhà máy bột ngọt, nhà máy phân bón hóa học, nhà máy thuốc trừ sâu, nhà máy đóng tàu, khu liên hợp gang thép Thái Nguyên, thiết bị khai thác mỏ, hệ thống truyền thanh, nông trường quốc doanh, trường kỹ thuật nông nghiệp, và tiếp tục sửa chữa từ Hà Nội đến Lào Cai, đến tuyến đường sắt ở Thái Nguyên, việc xây dựng lại cầu Xianlong, v.v.
Xét về cung cấp các loại vật tư cần thiết cho tiền tuyến và đời sống nhân dân, chỉ tính riêng từ năm 1965 đến năm 1975, Trung Quốc đã cung cấp tổng cộng hơn 5 triệu tấn ngũ cốc, hơn 300 triệu mét vải, hơn 30.000 ô tô, hơn 600 chiếc tàu các loại, hơn 100 đầu máy, có hơn 4.000 chiếc bệ và toa xe, gần 2 triệu tấn xăng dầu, cùng các loại hàng dệt kim và nhu yếu phẩm hàng ngày với tổng trị giá hơn 700 triệu nhân dân tệ.
Viện trợ đặc biệt có giá trị là từ năm 1955 đến năm 1976, khi Trung Quốc đang rất cần ngoại tệ để xây dựng đất nước, đã viện trợ cho Việt Nam hơn 600 triệu đô la Mỹ tiền mặt để Việt Nam sử dụng linh hoạt trong cuộc đấu tranh giải phóng Tổ quốc. Phía nam.
3.Trung Quốc cử tổng cộng 320.000 chuyên gia tư vấn, chuyên gia, kỹ thuật viên và quân đội sang hỗ trợ Việt Nam
Sau năm 1950, Việt Nam khẩn trương phấn đấu kháng chiến chống Pháp thắng lợi, theo đề nghị của Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng Việt Nam, Trung Quốc cử đoàn cố vấn quân sự và đoàn cố vấn chính trị sang giúp Việt Nam thực hiện công việc.
Nhiệm vụ của nhóm cố vấn quân sự do đồng chí Wei Guoqing đứng đầu là giúp Việt Nam xây dựng quân đội và truyền đạt kinh nghiệm chiến đấu. Ngoài giúp Quân ủy Trung ương Việt Nam còn có các sư đoàn chủ lực và các binh chủng khác sang giúp Việt Nam như 308, 312, 316, 304. Giúp Việt Nam xây dựng lực lượng chủ lực với nhiều sư đoàn.
Nhiệm vụ của nhóm cố vấn chính trị do đồng chí Luo Guibo đứng đầu là góp ý với Đảng Lao động Việt Nam và các cơ quan ban ngành của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về các chính sách và công việc cụ thể của các ban ngành, nhằm xây dựng một tổ chức giải phóng vững mạnh. tạo điều kiện cho vùng giải phóng làm nhiệm vụ chi viện cho mặt trận. Ngoài tổ trưởng tổ tham mưu thường xuyên trao đổi ý kiến với Bộ Chính trị Trung ương Đảng, còn có các tổ tham mưu giúp việc về tài chính, thuế vụ, ngân hàng, giao thông vận tải, công an, tình báo và các bộ phận khác.
Các chuyên gia tư vấn Trung Quốc đã hỗ trợ Việt Nam xây dựng chủ trương, chính sách công tác của các bộ, ngành, thiết lập cơ cấu tổ chức, hệ thống công việc và phương pháp làm việc, đào tạo nhiều cán bộ có bản lĩnh chính trị và chuyên môn, thúc đẩy sự phát triển của các nhiệm vụ. Kể từ đó, Trung Quốc đã cử nhiều đợt chuyên gia sang Việt Nam làm việc hết lòng, khiến cán bộ và nhân dân Việt Nam vô cùng cảm phục. Mãi đến năm 1978, khi nhóm Lê Duẩn ráo riết chống Trung Quốc, chính phủ Trung Quốc mới quyết định rút toàn bộ chuyên gia về nước.
Cần phải chỉ ra rằng, các chuyên gia tư vấn, chuyên gia Trung Quốc sang làm việc tại Việt Nam, phía Việt Nam chỉ cần lo tiền ăn, ở, phương tiện đi lại, còn tiền lương, trợ cấp và các chi phí khác phía Trung Quốc sẽ tự giải quyết. Hồ Chí Minh đánh giá cao sự đóng góp của các chuyên gia tư vấn, chuyên gia, kỹ thuật Trung Quốc. Ông từng nói: “Tôi tin tưởng tuyệt đối vào các cố vấn Trung Quốc.” Ông đích thân trao huân chương cao quý nhất của Việt Nam cho các trưởng nhóm cố vấn và nhóm chuyên gia. Để ghi nhận những thành tích của họ trong cuộc kháng chiến và xây dựng ở Việt Nam.
Từ năm 1965 đến năm 1970, quân đội Mỹ đã sử dụng không quân và hải quân điên cuồng bắn phá, bắn phá miền Bắc Việt Nam, thậm chí âm mưu đưa quân trực tiếp xâm lược miền Bắc Việt Nam. Chủ tịch Mao Trạch Đông và Trung ương Đảng liên tiếp cử hơn 300.000 bộ đội phòng không, công binh, đường sắt, hậu cần hỗ trợ Việt Nam toàn bộ vũ khí, khí tài, trang thiết bị, máy móc, vật tư, hoàn thành nhiều nhiệm vụ quan trọng. Hơn 1.000 đồng chí đã hy sinh trên đất nước Việt Nam, hơn 3.000 đồng chí đã hy sinh thương tật. Sau khi nhiệm vụ hoàn thành vào tháng 7 năm 1970, toàn bộ quân đội Trung Quốc đã rút lui.
4.Trung Quốc đã thực sự trở thành hậu phương vững chắc của Việt Nam
Dưới sự đánh phá của máy bay Mỹ, công tác vận chuyển vô cùng khó khăn. Trung Quốc đã làm mọi cách để hỗ trợ Việt Nam giải quyết hiệu quả vấn đề này, đặt khoảng 4.000 km đường ống dẫn dầu để họ vận chuyển xăng dầu của Trung Quốc vào miền Nam Việt Nam. Từ năm 1967, Trung Quốc đã sử dụng 500 phương tiện vận chuyển hàng viện trợ đến cảng Hải Phòng của Việt Nam bị Mỹ phong tỏa bằng thủy lôi, sau đó điều thêm 2.200 phương tiện vận tải vận chuyển hàng viện trợ vào nội địa Việt Nam theo 5 tuyến đường.
Trung Quốc cũng thường giúp Liên Xô và các nước vận chuyển hàng viện trợ qua đường quá cảnh cho Việt Nam, vận chuyển miễn phí toàn bộ hàng viện trợ quân sự.
Một điểm quan trọng khác là cho phép Việt Nam sử dụng lãnh thổ Trung Quốc làm địa điểm hoạt động và cung cấp các loại trang thiết bị.Ví dụ: trong thời kỳ chống Pháp, Trường Lục quân Việt Nam do Thiếu tướng Chen Ziping và Thiếu tướng Lê Thiết Hùng đứng đầu được đặt tại Tỉnh Vân Nam, và các giáo viên ở Trung Quốc Đào tạo cán bộ quân sự với sự giúp đỡ của
Trong thời kỳ chống Mỹ, các sân bay Việt Nam bị không quân Mỹ uy hiếp, Không quân Việt Nam đã huấn luyện và cất giấu tại các sân bay tỉnh Vân Nam nước ta.
Một đài phát thanh dự phòng được thành lập cho Việt Nam tại Vân Nam. Tối ngày 18/12/1972, Đài Tiếng nói Việt Nam tại Hà Nội bị máy bay Mỹ ném bom, chỉ 9 phút sau, Đài TNVN tại tỉnh Vân Nam tiếp tục phát thanh thay Đài trong nước, báo tin chiến thắng cho nhân dân cả nước kịp thời.
Nó được đặt tại Bệnh viện Nanxi với hơn 600 giường bệnh ở Quế Lâm, Quảng Tây, để phục vụ cho việc sử dụng của các bệnh nhân. Sau chiến tranh, toàn bộ trang thiết bị của bệnh viện này được gửi sang Việt Nam rồi vận chuyển trở lại Trung Quốc, ở Quế Lâm còn có trường thanh niên Việt Nam, chủ yếu đào tạo con em liệt sĩ Việt Nam và học sinh miền nam tập kết ra bắc.
Có một câu nói cổ ở Trung Quốc: Nuôi Mi En, chiến đấu với Mi Qiu. Có nghĩa là khi một người gặp khó khăn, dù chỉ được giúp đỡ một chút, họ cũng sẽ rất biết ơn. Nhưng nếu bạn giúp đỡ quá nhiều, bên kia sẽ có ác cảm. Việt Nam có lẽ cũng vậy, Trung Quốc đã giúp Việt Nam chống Pháp và Mỹ suốt 28 năm, cung cấp người và tiền bạc để trao trả vũ khí, nên Việt Nam lệ thuộc, coi đó là đương nhiên. không có lòng biết ơn với Trung Quốc.
Sau khi Hồ Chí Minh qua đời, Lê Duẩn lên cầm quyền và áp dụng chính sách thân Liên Xô bài trừ người Hoa. Lê Duẩn thậm chí còn tuyên bố: “Quảng Đông và Quảng Tây cũng là của chúng ta.” Tháng 11 năm 1978, chính phủ của Lê Duẩn ký một liên minh quân sự với Liên Xô, nhằm vào Hoa Kỳ và Trung Quốc. Trước sự khiêu khích và hung hăng thường xuyên của Việt Nam, Trung Quốc không chịu nổi, cuối cùng đã mở cuộc phản công tự vệ vào ngày 17/2/1979. Cuối cùng, Việt Nam đã bị Trung Quốc dạy dỗ một cách dã man, không chỉ bị phá hủy một lượng lớn cơ sở hạ tầng, sức mạnh tổng hợp của quốc gia bị suy yếu nghiêm trọng mà còn bỏ lỡ những cơ hội phát triển quý giá.
P/s