@Olineasdf ,
@dungdamchemnhau:
Rất khó để giải thích việc tại sao lại có những hành động không thể kiềm chế của 1 chúng sanh khi tiếp xúc với 1 mội trường thuận lợi cho 1 loại tâm nào đó sinh khởi, nên tao đành tóm tắt 1 chương phức tạp trong Abhidhamma về tiến trình nhận thức -phán đoán-hành động.
1 tiến trình tâm chỉ gói gọn trong 17 chặng, gọi là 17 sátna tâm. Sátna là khoảng thời gian rất nhỏ, trong 1 cái máy mắt có 1 ngàn sátna. Chặng đường sanh diệt liên tục của tâm chỉ gọn trong 17 sátna như vậy. Nếu đứng ngoài tiến trình này và quan sát, ta sẽ thấy chúng là từng chuỗi, từng chuỗi sanh diệt.
Để hiểu rõ bản chất của 1 thứ gì đó chưa biết, người ta phải chia chẻ nhỏ chúng ra để quan sát, cũng vậy, các luận sư ngày xưa đã chỉ rõ tiến trình 17 chặng này.
Sau khi sanh lên, chúng phải diệt lập tức để tạo nền tảng cho 1 tâm kế tiếp sanh lên, đánh số cho dễ hiểu
1. Hữu phần (bhavaṅga) là trạng thái tâm chủ quan khi cảnh chưa hiện khởi. (ví như 1 người đang ngủ say, chưa tiếp xúc cảnh bên ngoài, nếu không có tác động bên ngoài, chúng sẽ yên lặng như vậy, đây là nền tảng cho Alaya thức của Phật giáo Bắc truyền).
2-(V): Hữu phần vừa qua (Atītabhavaṅga) là trạng thái tâm chủ quan sanh diệt đồng thời với cảnh sắp đến. (ví như khi đang ngủ say thì có 1 tiếng động lớn đánh thức, đây chỉ thuần túy là tiếp thu bên ngoài, không có sự cố ý, hoàn toàn vô tình). Sau khi sanh lên, chúng phải diệt lập tức để tạo nền tảng cho 1 tâm kế tiếp sanh khởi
3-(R): Hữu phần rúng động (Bhavaṅgacalana) là trạng thái tâm chủ quan bị cảnh mới chi phối. (quan sát thế giới bên ngoài xem xét cái gì vừa mới gây ra tiếng động)
4-(D): Hữu phần dứt dòng (Bhavaṅgapaccheda) là trạng thái tâm chủ quan chấm dứt nơi đây để nhường cho những tâm khách quan khởi lên tiếp thu và xử sự với cảnh mới. (Đã thấy đối tượng gây ra tiếng động, đến đây thì tâm vô ý( vô ký) chấm dứt, bắt đầu cho luồng tâm cố ý. Sự khác nhau của chúng:
+ Tâm vô ý: không có cảm xúc, không sử dụng kinh nghiệm, không tạo nghiệp quả Kamma, chỉ bị tác động từ bên ngoài...: Cơn đói, cơn khát, vô tình thấy, vô tình gặp gỡ, muỗi chích, tai nạn...
+ Tâm cố ý: Sử dụng kinh nghiệp bản thân, theo cảm xúc khi bị tác động, tạo nghiệp quả theo tiến trình...: Thích khi được vật hợp ý, muốn nắm giữ, muốn chiếm hữu...
5-(K): Khán Ngũ Môn (Pañcadvāravajjanacittaṃ) là trạng thái tâm Khách quan vừa sanh khởi hướng về đối tượng tức là cảnh mới sắp hiện vào. (Sử dụng 5 cơ quan cảm giác để tìm kiếm đối tượng gây ra tiếng động nói trên).
6-(5): Ngũ Song Thức (pañcaviññāṇa) là cặp Nhãn thức, cặp nhĩ thức, cặp Tỷ thức, cặp Thiệt thức, cặp Thân thức là nơi năm cảnh hiện khởi vào và năm thức sanh lên bắt lấy cảnh. (do sử dụng 5 căn nên tìm thấy đối tượng, ví dụ nơi chốn sanh ra tiếng động nên đi đến đó).
7-(T): Tiếp Thâu (Sampaṭicchana) là trạng thái Tâm TiếpThâu cảnh Ngũ (Cảnh Sắc, Cảnh thinh, Cảnh Khí, Cảnh Vị và Cảnh Xúc). (Thấy vật gây ra tiếng động, ví dụ như mới có 1 thứ gì đó rớt xuống).
8-(Q): Quan Sát (Santīraṇa) là trạng thái xem xét đối tượng mà Tâm Tiếp Thâu vừa lãnh nhận. (Quan sát vật gây ra tiếng động). Xác định được vật gây ra tiếng động, ví dụ như trái xoài rụng).
9-(P): Phân Đoán (Votthabbana) là trạng thái xác định đối tượng tốt, xấu v.v...(Dựa vào kinh nghiệm có được từ màu sắc, hình dáng, mùi hương..., xác định đây là trái xoài).
10-15-(T) Tốc hành tâm (Javana) là trạng thái tâm xử sự với đối tượng cũng gọi là cách tâm hưởng cảnh. (Quyết định ăn hay không ăn trái xoài này).
16-17-(M) Mót (Tadaalambana) là trạng thái Tâm hưởng cảnh dư. (Nếu trái xoài vừa ăn là ngon hoặc dở, chua hay ngọt, tâm sẽ ghi lại như là 1 kinh nghiệm và sẽ sử dụng chúng trong những lần kế tiếp nếu gặp 1 cảnh nào tương tự).
Toàn bộ tiến trình này là tóm tắt sự vận hành tâm. Chúng hoàn toàn kín kẽ, không có lấy 1 quãng dừng, do vậy nếu không có chánh niệm ( samma sati) liên tục để biết tâm đang trong trạng thái nào, chúng sẽ hoàn toàn chảy mạnh theo quán tính. Nhưng còn phức tạp hơn thế này là các tâm không bao giờ đi riêng lẻ, chúng được cấu thành từ những thành phần tâm khác, ví dụ như tham phải đi chung với tà kiến, ngã mạn; sân phải đi với tật, lận, hối... Ví như ta quen gọi là nước chanh, nhưng thực ra chúng gồm: Nước+chanh+đường+đá+ly+muỗng... Các thành phần phụ thường bị bỏ quên và đó là quán tính. Do vậy, mặc dù chúng có mặt nhưng ta lại không hề nhận ra.
Tùy theo năng lực tu tập mà 1 người sẽ kịp thời phát hiện ra sự có mặt của bất thiện(hay thiện) là sớm hay muộn, nhanh hay chậm. Ví như 1 người tỉnh táo sẽ nhận thức được vấn đề nhanh hơn 1 người mệt mỏi lờ đờ.
Định là an trú tâm trên 1 đối tượng như sợi dây trói tâm vào 1 đối tượng, chánh niệm là kiểm soát tâm như 1 người bảo vệ. 2 khái niệm này hoàn toàn khác nhau, định không thể thấy được trạng thái tâm, chỉ chánh niệm mới nhận ra sự bất thường của tâm.
Tu tập định chỉ là để tâm hưởng các cảnh tốt của thiền, còn chánh niệm là để loại trừ các ô nhiễm.