Đạo lý Thiền Vipassana - Tứ Niệm Xứ

Giới thiệu pháp môn Thiền Vipassana - Tứ Niệm Xứ


Phân biệt giữa Thiền Chỉ Tịnh (Samatha hay còn gọi là Thiền Chỉ) và Thiền Minh Sát (Vipassana hay còn gọi là Thiền Quán)

T không phải thiền sư nên chỉ biết một số giáo lý căn bản về thiền. Tôi xin phép giới thiệu sơ lược và khái quát định nghĩa và các loại Thiền trong Phật Giáo.

1.Trước tiên nên định nghĩa về Thiền. Chứ không biết thiền là gì thì sao mà hành thiền.

1. Thiền hay còn nguyên văn là Thiền na ( do Tàu phiên âm của Ấn). Từ gốc của nó theo tiếng Pali là jhāna dịch nôm na là “đốt cháy”. Cần phải định nghĩa rõ để hiểu thế nào là thiền để có thể thực hành được.

=> Hành thiền là để đốt cháy và bào mòn phiền não ( tham, sân, si, ái, mạn, kiến, nghi, ganh tỵ, hận thù, tị hiềm, hối hận, bủn xỉn, tật đố, trạo cử, hôn thuỵ …)

=> 4 đại oai nghi khi hành thiền : Đi - Đứng - Nằm - Ngồi ( Hán dịch là thiền hành - thiền trụ - thiền ngoạ - thiền toạ).

Ngồi thiền chỉ là 1 trong 4 oai nghi. Điều quan trọng là chú tâm và quan sát đề mục.

Thiền không phải là xếp bằng ngồi lim dim để đầu rảnh rang hay nghĩ bậy bạ.
Suy nghĩ lung tung nhớ về quá khứ nắm tay nàng hay vọng về tương lai 2 ta sánh đôi. Tất cả là tập trung và ghi nhận về đề mục hiện tại !


Cái đó là Thiền mông cổ ( giữ cái mông cho vững và cái cổ cho thẳng) mà không hề có 1 tác dụng nào cho hành giả. Vì vậy một người không có chút giáo lý không thể hành thiền được chứ đừng nói hành thiền đúng.

2. Trong Phật giáo có 2 loại thiền là Thiền Chỉ và Thiền Quán.

Ngoài 2 cái này ra là bậy bạ tà đạo.

- Các loại thiền trong Phật giáo - Những loại thiền không phải Phật giáo : thiền trà, thiền ca, thiền ôm, thiền nắm tay, thiền chăm cây, thiền điện chạy tùm lum trong người, thiền não bộ, thiền luân xa, thiền xuất hồn ... là ngoại đạo vì chỉ làm tăng thêm phiền nào chứ không hề bào mòn xíu nào.

=> Bất cứ cái nào ngoài Chỉ và Quán ra đều không phải là thiền ( bào mòn phiền não) mà chỉ làm ta thêm phiền nào mà thôi.

- Sau đây là định nghĩa sơ lược về Chỉ và Quán

Thiền Chỉ (Samatha) :
dùng để tu định và đắc định. Nếu đủ duyên thì chứng các tầng thiền. Có được thần thông nếu tu đúng ( ngũ thông trừ cái lậu tận thông). Thiền Chỉ trong PG chỉ có được tu tập để trợ duyên dễ dàng để chuyển qua Thiền Quán do năng lực đè nén 5 triền cái.

Khi hành loại thiền này hành giả chỉ chú tâm vào đề mục mà thôi. Đủ duyên thì chứng thiền và có tâm thiền. Nếu giữ được tâm thiền cho đến lúc chết chắc chắn sẽ sinh về cõi Phạm Thiên ( do đã đè nén 5 triền) nên nhàm chán 5 dục.

Loại thiền này có trước cả giáo pháp của Phật Gotama nên không phải là Phật tử vẫn tu bình thường.

Tiếp theo là pháp môn Thiền Vipassana - Chủ đề chính trong topic này !

Thiền Quán ( Vipassana ) : là loại chỉ có trong giáo pháp của 1 vị Chánh Đẳng Giác. Dùng để đoạn tận các phiền não một cách rốt ráo chứ không đơn thuần là đè nén. Một người có lí tưởng giải thoát đúng đắn thì bắt buộc phải tu Quán, thiền Chỉ chỉ là dùng để tu Quán dễ hơn.

Vipassana là một kỹ thuật đơn giản, thiết thực nhằm đạt đến sự bình tâm thực sự và xây dựng một cuộc sống hạnh phúc, hữu ích. Vipassana có nghĩa là “thấy mọi thứ như nó đang là”. Đó là một tiến trình khách quan của sự thanh lọc tâm thông qua quan sát.

Tức là 4 niệm xứ quán thân - thọ - tâm - pháp.

Nghĩa là làm gì biết đó


Thiền Quán thì dựa vào việc quán chiếu danh sắc để thấy rõ thực tánh tam tướng ( khổ - vô thường - vô ngã).

Hành giả sẽ chứng đạo khi thấy được 1 trong 3 tam tướng. Tuy 3 thằng này là 1 nhưng khi chứng thì tuỳ vào căn cơ sẽ thấy cái nào.

Tất nhiên là vẫn có đề mục như thiền quán nhưng không cần Định mạnh như vậy mà Niệm lại đóng vai trò quan trọng nhất. Khi Niệm có mặt thì Tuệ có mặt. Cụm từ Chánh Niệm ( niệm ) và Tỉnh Giác ( tuệ ) luôn được đề cập xuyên suốt trong Kinh Điển Pali.


3. T đã định nghĩa sơ về thế nào là thiền. Việc còn lại thì phải lựa cho mình 1 cái đề mục để tu tuỳ thuộc vào căn tánh hành giả.

Tài liệu để tu Chỉ và Quán ( search google) :


- Thanh Tịnh Đạo ( ghi rất rõ về các đề mục và khái quát về căn tánh hành giả. Tìm sách của Tỳ Khưu Khánh Hỷ dịch để dễ đọc vì đã được làm mềm hơn so với nguyên tác của luận sư Buddhaghosa).

- Kinh Đại Niệm Xứ ( nên tìm sách của thiền sư U Silananda để đọc vì diễn giải rất kĩ để thực hành và làm mềm đi rất nhiều về nội dung so với kinh tạng)

- Kinh và Chú giải Đại Niệm Xứ của Ngài Maha Thera

- Kiến thức A tỳ đàm căn bản để tu dễ hơn ( biết tâm là gì, tâm sở là gì, sắc pháp, triền cái là gì, 37 phẩm là gì, 6 căn, 12 xứ, 18 giới, 12 nhân duyên …. Rất cần cho việc tu thiền Quán). Trên đây t có 1 topic chuyên nói về cái này

Ngoài ra có thể tham khảo và trau dồi kiến thức của 3 tạng Pali để có cái nhìn tổng quan hơn nữa về giáo lý - giúp việc tu tập vững vàng hơn. Vì một thằng đại học dù gì vẫn giải phương trình ngon hơn thằng tiểu học.

Việc hành thiền hiện nay dựa theo lý thuyết và kinh nghiệm của thiền sư. Nhưng đã là kinh nghiệm thì trong đó sẽ có tư kiến. Vì vậy cần phải bám vào giáo lý để tu tập hiệu quả. Từ đó hành giả sẽ có được những kinh nghiệm và trải nghiệm cá nhân.

Nếu được có thể tham gia 1 khoá thiền 7 ngày. Nhưng mà t cũng không rõ ở VN chỗ nào ok. Vì t cũng thấy hướng dẫn ko hay như t đọc sách nữa. Trên thế giới chắc mỗi Miến Điện là đáng để học thiền quá.

Tất cả kinh điển Phật giáo hay pháp môn đều rõ như ban ngày. Không có gì là huyền diệu hay là mật mật tâm linh cả. Đều chi tiết từng bước. Vì vậy phần còn lại là của hành giả. Nếu đủ duyên hay còn gọi là đủ Ba - la - mật hành giả sẽ chứng đạo. Còn không thì gieo duyên cho một kiếp nào đó gặp Phật thì mình tu dễ hơn và là bậc tốc chứng tốc đắc chứ không tu kiểu rị mọ vất vả như bây giờ.

Đôi khi, trong kinh tạng, Đức Phật có đề cập đến hai pháp thiền: (1) thiền an chỉ hay thiền chỉ (samatha-bhavana), và (2) thiền minh quán (vipassana-bhavana) hay thiền quán. Hai pháp Chỉ-Quán nầy cần phải được phát triển đồng đều, bổ túc cho nhau.

Trong Tăng Chi Bộ, Chương Hai Pháp, Đức Phật dạy:

Có hai pháp này, này các Tỳ-khưu, thuộc thành phần minh. Thế nào là hai? Chỉ và Quán. Chỉ được tu tập, sẽ được lợi ích gì? Tâm được tu tập. Tâm được tu tập, sẽ được lợi ích gì? Cái gì thuộc về tham được đoạn tận. Quán được tu tập, sẽ được lợi ích gì? Tuệ được tu tập. Tuệ được tu tập, sẽ được lợi ích gì? Cái gì thuộc vô minh được đoạn tận. Bị tham làm uế nhiễm, này các Tỳ-khưu, tâm không thể giải thoát. Hay bị vô minh làm uế nhiễm, tuệ không được tu tập. Vì vậy, do ly tham, là tâm giải thoát. Do đoạn vô minh, là tuệ giải thoát.

Trong kinh Kimsuka, Tương Ưng Bộ, Thiên Sáu Xứ, Ngài có ví dụ pháp tu Chỉ-Quán như là hai vị thiên sứ cùng đến báo cáo cho vị chủ một ngôi thành ở vùng biên giới về tình trạng an ninh, bảo vệ phòng chống quân địch. Vị chủ thành đó là Tâm Thức của chúng ta, và địch quân ở đây là các phiền não lậu hoặc. Người giữ cửa thành là Niệm, và thành có sáu cửa là sáu căn. Như thế, ta dùng Niệm để canh giữ sáu căn, và nhờ có tu tập thiền Chỉ-Quán mà ta có thể ngăn chận và phòng chống được các phiền não do lậu hoặc mang đến.


Lâu nay chữ Thiền là một trong vài thuật ngữ Phật học được sử dụng rộng rãi và cũng có phần bừa bãi nhất ở cả những người trong và ngoài Phật Giáo. Trong sách này, có lẽ ta nên tìm lại định nghĩa nguyên thủy nhất của từ nầy. Một cách chính xác, ngắn gọn và cần thiết nhất, chữ Thiền trong kinh điển Pali chỉ gồm trong hai trường hợp sau:

-Theo tinh thần giáo lý Tam Học của Phật giáo nguyên thủy, bên cạnh một đời sống thanh tịnh trên ngôn từ và sinh hoạt tức Giới Học, người hành đạo giải thoát dứt khoát phải có được khả năng tập trung tư tưởng tức Định học, gọi tắt là Samatha (Chỉ), gọi đủ là Àrammanùpanijjhàna hay Thiền Tập Chú Cảnh Đề Mục, tức khả năng tập trung tư tưởng vào một đề mục nào đó.

- Từ nền tảng Định học, với Àrammanùpanijjhàna trên đây, hành giả dùng sức định tâm của mình để quan sát thân tâm xem chúng là gì và đang ra sao.

- Phải thấy thân tâm, thiện ác, buồn vui thật ra là gì thì hành giả mới có thể chán sợ và lìa bỏ sinh tử được. Công phu này được gọi là Lakkhanùpanijjhàna hay Thiền Quán Chiếu Bản Tướng Vạn Hữu. Công phu này chính là Tuệ Học trong Tam Học, cũng được gọi là pháp môn Vipassanà.

Hơn hai ngàn năm lưu truyền ở đời, giáo pháp của của đức Thích Tôn qua những bước đường du nhập và kế thừa ở các miền đất thỉnh thoảng có thêm những kiểu diễn dịch trình bày mà ít nhiều phảng phất dấu ấn cá nhân của những người hoằng đạo. Ta người đời sau học để biết thêm những cái riêng tư ấy, thấy tâm đắc thì theo và dĩ nhiên thấy bất phục thì tránh.

Nội dung sách này là một tập đại thành những kinh nghiệm riêng tư của các thiền sư Myanmar dựa trên cái chung là kinh điển Pali mà chúng tôi đúc kết lại từ các nguồn tài liệu tiếng Anh trên cả Internet và sách in (vào Google thì biết ngay).

Đó là những kinh nghiệm có được từ công phu hành trì của các hành giả thực thụ chứ không phải những lý luận suy diễn của các học giả mọt sách. Hai thứ này khác nhau nhiều lắm, vì một bên là ngắm nhìn ảnh chụp và một bên là sờ chạm trực tiếp.
Chúng tôi đọc nguyên tác và viết lại nội dung, không phải phiên dịch, chỉ vì lâu nay vẫn thấy thoải mái với lối chuyển ngữ này hơn. Ai muốn kê cứu gì ấy thì chỉ cần một Smartphone cũng đủ.

Các truyền thống Vipassanà được nhắc đến trong sách không hẳn là những dòng thiền lừng lẫy nhưng ít nhất cũng là những địa chỉ được nhiều người tu học trong và ngoài Myanmar biết đến hoặc quan tâm. Người Việt có lòng cầu thị Phật pháp ở Miến Điện có lẽ ít nhiều cũng nên có chút khái niệm về bối cảnh kiến giải của xứ sở nầy trước khi bỏ công qua đó xếp bằng nhắm mắt.

Nói đến kinh nghiệm Tuệ Quán Myanmar là xem như đang chạm vào khu rừng thiêng mấy nghìn năm phong kín của một xứ sở Phật giáo mà cả chiều dài lịch sử lẫn chiều dày truyền thừa đều đáng nể, đôi ba trăm trang kể chuyện về nhau thì có bỏ bèn thấm tháp vào đâu. Đó chính là lý do tập sách này có ít nhất hai quyển, tổng chi non nghìn trang. Sự nhiệt tình đón đọc của quý độc giả dành cho tập 1 sẽ giúp tập 2 sớm được chào đời.

Niềm mong mỏi lớn nhất của chúng tôi chỉ đơn giản là bà con Phật tử người Việt có cái giắt lưng khi vừa đặt chân lần đầu trên đất Myanmar. Khi đã biết mình sẽ về đâu, làm gì, với ai thì tập sách này khi ấy chỉ là của thừa

Kinh Nghiệm Tuệ Quán

Tóm lại, Thiền định là một pháp môn tu tập cần thiết của người con Phật. Thiền định giúp tạo một khả năng bền vững để có đời sống thiện, hướng thiện, và cứu cánh là thiện. Thiền có thể được xem là một tiến trình huân tập về cảm thọ, nuôi dưỡng các cảm thọ tốt đẹp như hỷ, lạc, xả, và từ bỏ các cảm thọ không tốt đẹp, như khổ, ưu.

Đây là một sự giáo dục tâm lý, đoạn tận các tâm lý không tốt đẹp như năm triền cái vốn bắt nguồn từ tham sân si, và thay thế bởi những tâm lý tốt đẹp là năm thiền chi, có căn bản là không tham, không sân, và không si. Thiền định là một giai đoạn tiếp theo việc vun bồi Giới đức, và là nền tảng để bước vào giai đoạn kế là phát triển Tuệ giác.
 
Sửa lần cuối:
Bế tinh dễ ung thư tiền liệt tuyến hiền giả cứ cẩn thận.
Này Hiền giả chớ nghĩ vậy, ung thư do vô số điều kiện tạo thành !

Hiện vẫn chưa phân tích được nguyên nhân tại sao các tế bào bất thường tại tuyến tiền liệt lại tăng sinh một cách mất kiểm soát như vậy, nhưng các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra một số tác nhân có mối liên hệ với căn bệnh này. Cụ thể:

  • Do tuổi tác: đàn ông tuổi càng cao thì khả năng bị ung thư tiền liệt tuyến càng lớn. Các số liệu thống kê cho thấy chỉ có khoảng 10% số nam giới dưới 54 tuổi bị ung thư tiền liệt tuyến nhưng con số này đã tăng lên thành 65% khi họ bước sang khoảng 55 - 74 tuổi;
  • Yếu tố di truyền: những nam giới có người thân trong gia đình bị ung thư tiền liệt tuyến (bố hoặc anh em trai) thì nguy cơ bị bệnh cao gấp 2 - 3 lần so với người bình thường;
  • Chủng tộc: trong 3 chủng tộc người da trắng, da đen, da màu và da vàng thì người da màu có nguy cơ bị ung thư tiền liệt tuyến cao nhất và người châu Á chiếm tỷ lệ mắc thấp nhất;
  • Các tác động khác: do các vấn đề về gen liên quan tới sự hình thành và sinh trưởng của tế bào ung thư, các yếu tố về môi trường, chế độ dinh dưỡng, tiếp xúc với hóa chất, hút thuốc, béo phì, viêm tuyến tiền liệt, lây bệnh qua đường tình dục, thắt ống dẫn tinh,.
 
Hình như đại sư có lần chỉ giáo tôi đoạn " quán tưởng" ở chỗ thread đạt Quả A la hán phải không nhỉ?
 
Hình như đại sư có lần chỉ giáo tôi đoạn " quán tưởng" ở chỗ thread đạt Quả A la hán phải không nhỉ?
Quán tưởng gì hả Hiền giả, mình không nhớ nữa vì nhiều đề mục quá.
 
Quang tướng chứ nhỉ? Mà người khác thiền thấy ánh sáng, tôi toàn thấy gương mặt xa lạ thôi. Chắc kiếp trước đồ sát nhiều quá.
Không có đâu, đó là các tâm quả hay tưởng tri chen vào lộ trình tâm. Khi nào có 5 chi thiền sẽ đè được 5 triền cái.
 
Kinh nghiệm quán Tâm

mc4vjr9.jpeg
 
KHI MỚI BẮT ĐẦU HÀNH THIỀN CẦN PHẢI GHI NHẬN NHỮNG GÌ?

Bạch Ngài, khi bắt đầu hành thiền chúng con phải ghi nhận những gì, chúng con có phải ghi nhận cả thân lẫn tâm hay sao?

Yathāpākaṭaṃ vipassanābhiniveso(VismA)

Trong chú giải của Thanh Tịnh Đạo có viết:

Minh sát là quán sát các đối tượng nổi bật nhất. Như vậy, đối với người mới bắt đầu hành thiền thì phải ghi nhận đối tượng nào nổi bật và rõ ràng nhất. Vì đối tượng nổi bật là đối tượng dễ ghi nhận.
Đừng khởi đầu việc hành thiền bằng cách quán sát các đối tượng thật vi tế hay khó khăn và có ý nghĩ sai lầm rằng phải quaùn sát các đối tượng vi tế khó khăn mới đạt được thành quả mau chóng.

Chẳng hạn, một học sinh mới bắt đầu vào học thì phải được học những bài học dễ trước. Học sinh mới đi học không thể cho bài khó được. Cũng vậy, khởi đầu hành thiền bạn phải quán sát những đề mục dễ nhất trước . Đức Phật dạy một phương pháp thật dễ “khi đi hãy ghi nhận đi”, “khi ngối phải ghi nhận ngồi”. Thế thôi.

(Trích từ bài giảng về Kinh Ariya Vatta trang 207)

Chú giải nói “Yathāpākaṭaṃ vipassanābhiniveso(VismA)”, nghĩa là một người có thể quán theo từng kỳ bắt đầu từ những gì xuất hiện rõ ràng nhất. Thông thường, những hoạt động của thân được thể hiện rõ ràng hơn. Vì vậy, các bản Chú Giải nói rằng quán và ghi nhận nên bắt đầu từ thân (rūpa). Hành giả nên bắt đầu quán từ đại chủng (mahābhūta) nào hiển hiện rõ nhất trong thân nghĩa là quán bất kỳ yếu tố nào trong bốn yếu tố: Đất, Nước, Lửa và Gió.

MAHASI SAYADAW
Giảng Giải Kinh Gò Mối
 
Sao ông Thích Thông Lạc bảo thiền quán k phải của Thích Ca vì ko đề cập trong kinh nguyển thuỷ
Ổng giảng phép còn sai, định nghĩa còn lơ mơ mà. Ổng có biết đọc Pali ko mà phán không có trong Kinh nguyên thuỷ.

Theo t thì 1 vị giảng sư thì phải trích Kinh ra thì nó mới sướng.
 

Nguồn :


Và có vô số bài kinh như vậy.

4.170. Gắn Liền Cột Chặt​



Một thời, Tôn giả Ananda sống ở Kosàmbi, tại khu vườn Ghosita. Tại đấy, Tôn giả Ananda gọi các Tỷ-kheo:

—Thưa các Hiền giả Tỷ-kheo.

—Thưa vâng, Hiền giả.

Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả. Tôn giả Ananda nói như sau:

—Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào tuyên bố trước mặt tôi rằng, đã chứng được quả A-la-hán, tất cả vị ấy được đầy đủ bốn chi phần này, hoặc là một trong bốn chi phần này. Thế nào là bốn?

Ở đây, này chư Hiền, Tỷ-kheo tu tập quán, có chỉ đi trước; do vị ấy tu tập quán có chỉ đi trước, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.

Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo tu tập chỉ, có quán đi trước. Do vị ấy tu tập chỉ có quán đi trước, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.

Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo tu tập cả hai chỉ quán gắn liền với nhau. Do vị ấy tu tập cả hai chỉ quán gắn liền với nhau, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.

Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo với các dao động đối với các pháp được hoàn toàn dứt sạch. Này các Hiền giả, đây là thời khi tâm của vị ấy an trú, an tọa, nhất tâm, định tĩnh. Với vị ấy, con đường sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.

Này chư Hiền, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào tuyên bố trước mặt tôi rằng, đã chứng được quả A-la-hán, tất cả vị ấy được đầy đủ bốn chi phần này, hoặc là một trong bốn chi phần này.
 
Quang tướng chứ nhỉ? Mà người khác thiền thấy ánh sáng, tôi toàn thấy gương mặt xa lạ thôi. Chắc kiếp trước đồ sát nhiều quá.
Tất cả là Ma Cảnh. Gặp Phật ko vui mừng, gặp Ma ko sợ hãi, gặp ông bà tổ tiên thì đừng vội nhận.

Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật
 
NĂM TRIỀN CÁI LÀ GÌ

1. Dục triền cái là: niềm đam mê ở trong 5 trần.

2. Sân triền cái là: sự bất mãn trong 5 trần.

3. Hôn thụy là: trạng thái tâm dã dượi, lười biếng và buồn ngủ.

4. Trạo hối có 2 là trạo cử tức là không định, và hối hận về cái chuyện mà mình không có làm.

5. Hoài nghi cái có nghĩa là: sự hoang mang, nghi hoặc về bản thân mình, về con đường hành trì, về Tam bảo, về thầy bạn liên hệ đến chuyện tu tập.

Tổng cộng lại thì gọi là 5 triền cái.

Để đối phó với 5 triền cái đây, theo Chánh Kinh, thì đối phó với dục triền cái thì mình có bất nhã, sân triền cái thì có từ tâm, hôn thụy thì có sự tinh tấn, trạo hối thì có tâm tịnh chỉ, còn nghi hoặc thì có như lý tác ý. Đó là phần Chánh Tạng. Ở đây mình học thêm ở phần Chú giải.

Chú giải là phần triển khai rộng rãi hơn nữa, các vị Alahán xét thấy rằng nói gọn quá thì có nhiều người mơ hồ, nên các vị mới giải thích thêm, nhưng nội dung vẫn xoay quanh Chánh Tạng.

Trong Chánh Tạng nói rằng để đối phó với Dục triền cái thì không nên tác ý đến cái đẹp, hay ho của sự vật, mà thấy cái gì cũng là vô ngã vô thường. Bởi vì có chữ như lý tác ý (yoniso manasikara) rất là hay, tức là tác ý đến tánh sanh diệt, vô ngã vô thường của trần cảnh, đó gọi là khéo tác ý. Đó là nói theo Chánh Kinh. Còn các vị Alahán triển khai thêm.

Các vị nói rằng có 6 điều kiện đối trừ Dục triền cái:

1. Asubhanimittassa uggaho là học kỹ các đề mục bất mỹ. Học kỹ các đề mục bất mỹ gồm có 32 thể trược và 10 loại tử thi. 32 thể trược là tính từ trên đầu mái tóc xuống tới gót chân : tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương… tức là từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, từ tế đến thô.

2. Asubhabhavananuyogo là thực hành quán chiếu các đề mục bất mỹ.

3. Indriyesu guttadvarata Thu thúc lục căn.


4. Bhojane mattannuta Ăn uống chừng
mực, có nghĩa là: không có 2 cái quá :
không ăn quá no như mình thích và không tìm cái quá ngon - quá thơm - quá vừa miệng như là mình muốn.

5. Kalyanamittata Gần gũi minh sư thiện hữu, minh sư là thầy giỏi, còn thiện hữu là bạn lành.

6. Sappayakatha có nghĩa là chỉ nói năng, trao đổi những cái đề tài hỗ trợ cho mình chán Dục. Chứ gặp nhau toàn nói cái này cái kia để mà kích thích lòng Dục thì không được.

Sáu điều kiện tiêu trừ Sân triền cái:

1. Học kỹ về đề mục từ tâm.
Thí dụ như có 7 đối tượng rải cho 10 hướng, rồi cộng với 4 lời nguyện. Như nguyện tất cả người nam trong hướng đông không oan trái lẫn nhau, được an vui, biết tự bảo trọng. Rồi tất cả người nam trong hướng bắc, xong lấy 10 hướng nhân cho 4 câu nguyện. Làm đúng như vậy thì tâm mình dính chặt vô đó không phóng được nữa, thì cái đó gọi là học kỹ đề mục từ tâm.

2. Thực tập đề mục từ tâm, tức là mình học kỹ rồi mình bỏ túi là không được mà phải thực tập, thực hành đề mục từ tâm.

3. Kammassakatapaccavekkhana là biết suy tư về nghiệp lý để biết mọi người có nghiệp riêng, nghĩ rằng ai đó hãy để cho nghiệp ác của họ xử họ là đủ rồi. Thương ai mình giúp thì giúp nhưng mà mình cứ nghĩ trong bụng rằng: mình giúp không bằng cái thiện nghiệp của họ giúp cho họ, mỗi người có nghiệp riêng.

4. Thường có thói quen sống thâm trầm gọi là Patisankhanabahulata: gặp cái gì cũng sống suy nghĩ - suy tư về Phật Pháp.

5. Gần gũi minh sư thiện hữu.

6. Đề tài nói năng thích hợp với Pháp môn mình đang tu tập,
mình đang trau dồi cái gì thì mình chỉ nói năng trao đổi về cái đề tài đó thôi, thì mình mới mạnh được. Trong khi mình đang tu tâm từ, mà người nhiều chuyện, họ cứ thọc đầu này, chọt đầu kia, mình ráng sức dóng cái tai lên nghe thì như vậy là chết rồi! Tôi không dám nói tôi là hành giả, mà tôi đã gặp trường hợp đó rồi. Có lúc mình cũng tự nhủ tu tâm từ kiếm chút phước, nhưng mà cầm phone lên là nghe họ tố khổ, họ tả oán người khác là mình chịu không nỗi, nổi điên theo.

Cho nên Sappayakatha rất là quan trọng, tu cái gì không cần biết, chỉ biết là cái đề tài nói năng, trao đổi là rất quan trọng. Đầu bình thường nghĩ nhiều về cái gì, người bình thường gặp gỡ là ai, đề tài nói chuyện là gì, rất quan trọng.

Sáu điều kiện đối trừ Hôn Thụy:


1. Atibhojane nimittaggaho: ăn uống chừng mực, biết rõ các tác hại của chuyện đầy bụng, không phải chỉ nghe thoáng qua mà phải biết rõ. Bản thân chúng tôi cứ bữa nào mà hơi lỡ đũa thì người rất là mệt, nó buồn ngủ, dật dờ, óc ách, nhiều khi cần uống nước cũng không có chỗ chứa nữa, cái đó khổ dữ lắm, mà nó buồn ngủ dữ lắm.

2. Thường xuyên thay đổi oai nghi thích hợp, oai nghi tức là tư thế sinh hoạt. Ngồi, nằm lâu quá rồi không có tốt, đừng thấy nằm sướng quá cái nằm luôn, thấy ghế bố êm quá cái ngồi luôn, đó là không có được, đối với hành giả không có cái vụ mà quá quá, đã quá hoặc là khó chịu quá là hành giả phải có cách xử lý , chứ không thể nào để cho cơ thể mình, thân tâm mình trong tình trạng mà quá quá đó là không tốt.

3. Tu tập đề mục ánh sáng, hoặc là đang nghĩ rằng mình ở chỗ sáng. Chánh Tạng kể khi Ngài Mục Kiền Liên đắc Tu đà hườn rồi Ngài đi xuất gia thọ Đại giới, Ngài cũng vào chỗ vắng vẽ để thiền định, mà Ngài bị buồn ngủ chịu không nỗi. Lúc đó Đức Phật xuất hiện chỉ Ngài Mục Kiền Liên cái cách như tự xoa bốp tay chân, lấy nước lạnh rửa mặt, mở to mắt nhìn lên bầu trời đêm, nháy mắt, nghĩ tới ánh sáng, nghĩ tưởng mình đang ở chỗ sáng sủa, chói rực, đó gọi là tác ý ánh sáng.

4. Abbhokasavaso là phải sống chỗ thông thoáng, trống trải, không có che khuất.

5. Sống gần người lành.

6. Đề tài nói chuyện thích hợp.

Sáu điều kiện đối trừ Trạo Hối:

1. Bahussuta: phải chịu khó siêng năng học hỏi Giáo lý.

2. Paripucchakata: thường xuyên vấn đạo để phá nghi,
không nên để thắc mắc hoài là không tốt.

3. Vinaye pakatannuta: phải học kỹ và giữ kỹ Tạng Luật.

4. Vuddhasevita : gần gũi thân cận Hiền Thánh.

5. Sống gần bạn lành.

6. Đề tài nói chuyện thích hợp.



Sáu điều kiện đoạn trừ Hoài Nghi:

Cũng y như 6 điều kiện để đối trừ trạo hối, chỉ có điều 4. là tìm mọi cơ hội để trau dồi niềm tin.


Sư Giác Nguyên giảng
Trích bài giảng Kinh Tăng Chi số 003
 
Top