Thứ Hai là ngày đầu tuần, lên bài chém gió với mọi người!
Trước khi viết bài thì mong mong mọi người đọc qua 1 số lời tâm sự thật lòng. Thế giới Trà thì nó mênh mông lắm, và chính bản thân tôi thừa nhận cũng mới chỉ mon men đi vào mép lá trà thôi, kiến thức còn hổng, thiếu nhiều, và cũng rất cầu thị được học hỏi những người giỏi hơn muốn chia sẻ. Nhưng chủ yếu chuyện trà thôi nhé! Còn mấy cái khác như gái gú, chính trị chính em, (Tôi Cũng Máu Lắm) nhưng để tránh loãng topic mong mọi người hạn chế lạm bàn!
Thứ hai là kiến thức của tôi thực tế cũng chỉ là Hệ Thống Lại từ các nguồn sau:
1. Sách Vở: các cuốn mọi người nên đọc đã được Việt dịch rất nhiều như Trà Kinh (Lục Vũ), Trà Thư (Okakura Kakuro), Trà Dữ TQ Văn Hóa, Lịch sử của trà, và 1 số cuốn sách khác (tôi lười lên lầu lấy lắm). Ngoài ra người Việt cũng có 1 số sách như Vũ Trung Tùy Bút (phần Thú Uống Trà Tàu), Vang Bóng Một Thời (Chiếc ấm đất và Hương Trà) Cây Chè Việt Nam (ĐỖ Ngọc QUỹ), Trà thiền và ăn chay, Hương Trà (ĐỖ Trọng Hòe), Văn Minh Trà Việt (Trịnh Quang DŨng), Trà Kinh (Vũ Thế Ngọc), 1 số sách của cụ Vương Hồng Sển, và mới đây nhất là Thường Trà Thật Đẹp- Thật Vui của anh Tuấn Tử Sa và Chuyện Trà của Trần Quang Đức (đây là 1 trong những cuốn tôi thích nhất)
2. ĐI thực tế
3. Học hỏi qua các cuộc trà đàm chém gió từ chính những người đi trước thậm chí cả người nông dân mình nữa (ai hiểu cây chè hơn bác nông dân?)
Vì thế nên mọi người có thể tự đọc, học và nghiên cứu các nguồn ở trên cứ thoải mái nhảy vào tranh luận, chém gió. Đặc biệt là kinh nghiệm uống trà của bản thân.
Một vài lời nhỏ nhặt xin chia sẻ. Còn dưới đây, bài này mình đã viết rồi, nay thêm thắt 1 số ý cho các bạn chưa đọc mà thôi!
View attachment 767850
Chương 1: Khái Niệm Trà Việt
Đây có lẽ là thứ bị nhiều người bỏ qua nhất khi nói về Trà. Có 1 thực tế là hầu hết các sách viết về Trà đều dày công nghiên cứu để truy nguyên về nguồn gốc của cây chè cũng như từ nguyên chữ “Trà”: “Đồ- Trà- Chè- Cha- Thea- Tea…”
Tuy nhiên lại quên nêu 1 cái khái niệm cơ bản Trà là gì?
Vì đa số mọi người mặc nhiên nghĩ tới trà là nghĩ tới thức uống làm từ cây chè Camellia sinensis. Tuy nhiên thực tế dân gian dùng chữ Trà trong rất nhiều trường hợp và gọi tên vô số thức uống.
Ví dụ: Trà Thái Nguyên, trà Ô long, trà vối, trà nụ, trà hoa cúc, trà đắng, trà habicus, trà mate….
Thậm chí vua Minh Mạng khi thử Cà phê còn dùng 1 cái tên “Dương Trà”- trà Tây để chỉ thức uống này. Điều đó chứng tỏ trong tiềm thức dân Việt Nam, “Trà” không chỉ là chỉ 1 thức uống được chế biến từ cây chè Camellia mà có nghĩa rộng hơn.
Sau nhiều năm quan sát, tìm hiểu và thực địa mình có 1 cái khái niệm nho nhỏ về trà như sau. (Xin lưu ý 1 chút, phạm vi khái niệm này nằm trong lãnh thổ Việt Nam thôi ạ.)
“Trà là một thức uống giải khát được chế biến từ các loại thảo mộc tự nhiên.”
Đây là thiển ý cá nhân em. Có bác nào góp ý thêm xin cứ vô tư.
Dựa theo khái niệm này, trà Việt được chia là 2 dòng cơ bản:
1. Là các loại sản phẩm được chế biến từ cây chè Camellia
Ví dụ: bạch trà, trà Thái Nguyên, Ô long, trà đen…
2. Các loại trà thảo mộc khác
Ví dụ: trà vối, trà nụ, trà đắng (khổ đinh trà), trà hoa cúc, trà gừng, trà thảo dược, trà cung đình….
Trong đó, em xin tập trung vào vế thứ nhất: Các loại trà được chế biến từ cây chè Camellia.
View attachment 767851
Và tất cả các bài viết sau sẽ tập trung vào loại này.
Tại Việt Nam thì cách phân loại trà có điểm Khác và Giống ở Tây và Tàu. Giống là tuy cùng ảnh hưởng hệ thống của Tây, Tàu nhưng nó bị chồng chéo khái niệm. Vì thế mỗi 1 loại trà phải phân tích nó ra theo hệ thống nào. Đặc biệt hơn nữa, chúng ta phải phân biệt được Giống trà với Loại trà.
Ví dụ: giống trà như shan tuyết cổ thụ cũng là một giống trà. Tuy nhiên khi nói sản phẩm thì chúng ta hiểu mỗi loại 1 cách thức khác:
- Trà shan tuyết 1 tôm 1 lá: hiểu là trà Xanh được chế biến từ cây trà shan tuyết, phẩm trà 1 tôm 1 lá
- Hồng trà shan tuyết 1 tôm 1 lá: hiểu là hồng trà (lên men cao) được chế biến từ cây trà shan tuyết, phẩm trà 1 tôm 1 lá…
Vì thế khi mua trà, để tránh mua nhầm thì nên hỏi kỹ các vấn đề sau:
- Trà đó là trà gì?
- Nguồn gốc xuất xứ (rất quan trọng), càng chi tiết càng tốt
- Phẩm trà: đinh, tôm, móc câu, lá hay bồm,…
Ngoài ra em cũng xin giải thích 1 số thuật ngữ cơ bản trong trà. Đặc biệt trong định giá phẩm trà. Trung Quốc xây dựng hẳn 1 bộ phân cấp phẩm trà: liên tâm, kỳ thương, ngạnh phiến, tước thiệt,… còn Việt Nam sử dụng những từ ngữ khác dù cũng tương đương về nghĩa.
Ví dụ:
-Trà đinh (đinh ngọc) thường được dùng trong trà Thái Nguyên, chỉ búp trà non vụ Xuân (hoặc Xuân sớm), (kiểu như đỉnh của đỉnh ấy) lúc ấy búp trà mới nhú hình dạng như cái đinh.
- Nõn tôm: lúc này búp đã tách bẹ, hình giống như đuôi con tôm
- Tôm 1 lá, tôm 2 lá: hiểu là búp và 1 lá dưới, 2 lá dưới
- Móc câu: thực ra là Mốc Cau nhưng bị gọi chệch. Nguyên xưa các cụ ta chế trà kỹ thuật chưa được cao, những loại nào sao còn giữ lại được lớp lông mao sẽ nhìn như hình sợi mốc của cau khô và đánh giá nó là trà ngon. Sau gọi chệch thành Móc Câu. Phẩm trà Mốc Câu thì mỗi nơi đánh giá mỗi kiểu, tựu trung là trà dưới nõn tôm, hạng trung.
- Trà bồm: hiểu là lá trà già, lớn (em nghĩ từ này bắt nguồn từ chữ “Bồm)
Ngoài ra còn rất nhiều chữ nghĩa lung tung xèng, mỗi bài em sẽ giải thích thêm cho mọi người đỡ loạn!
Chúc mọi người thưởng trà ngon và đón đọc bài 2 “Các vùng trà và danh trà Việt Nam”.
Trà Nam Hoa